Tại Liệu Cho Thánh Lễ Hôn Phối – Wedding Mass References

Posted on by

Tài Liệu Thánh Lễ Hôn Phối – Mass Wedding References

300 St 1:26-28, 31a

Bài trích sách Sáng Thế

 

Thiên Chúa phán:
“Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta,
giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển,
chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất
và mọi giống vật bò dưới đất.”

 

Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.

 

Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ:
“Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều,
cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất.
Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời,
và mọi giống vật bò trên mặt đất.”

 

Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!

 

Đó là lời CHÚA.

 


301 Gen 1: 26-28, 31a

A reading from the Book of Genesis

 

Then God said:
“Let us make man in our image, after our likeness.
Let them have dominion over the fish of the sea,
the birds of the air, and the cattle,
and over all the wild animals
and all the creatures that crawl on the ground.”

 

God created man in his image;
in the image of God he created him;
male and female he created them.
God blessed them, saying:
“Be fertile and multiply; fill the earth and subdue it.
Have dominion over the fish of the sea, the birds of the air,
and all the living things that move on the earth.”

 

God looked at everything he had made,
and he found it very good.

 

The word of the LORD.

 


302 St 2:18-24

Bài trích sách Sáng Thế

 

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán:
“Con người ở một mình thì không tốt.
Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.”

 

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú,
mọi chim trời, và dẫn đến với con người,
xem con người gọi chúng là gì:
hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế.
Con người đặt tên cho mọi súc vật,
mọi chim trời và mọi dã thú,
nhưng con người không tìm được
cho mình một trợ tá tương xứng.

 

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ
mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi.
Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra,
và lắp thịt thế vào.

 

ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn
đã rút từ con người ra,
làm thành một người đàn bà
và dẫn đến với con người.

 

Con người nói:
“Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!
Nàng sẽ được gọi là đàn bà,
vì đã được rút từ đàn ông ra.”

 

Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình,
và cả hai thành một xương một thịt.

 

Đó là lời CHÚA.

 


303 Gen 2: 18-24

A reading from the Book of Genesis

 

The LORD God said:
“It is not good for the man to be alone.
I will make a suitable partner for him.”

 

So the LORD God formed out of the ground various wild animals
and various birds of the air,
and he brought them to the man to see what he would call them;
whatever the man called each of them would be its name.
The man gave names to all the cattle,
all the birds of the air,
and all wild animals;
but none proved to be the suitable partner for the man.
So the LORD God cast a deep sleep on the man,
and while he was asleep,
he took out one of his ribs and closed up its place with flesh.
The LORD God then built up into a woman
the rib that he had taken from the man.

 

When he brought her to the man, the man said:
“This one, at last, is bone of my bones and flesh of my flesh;
This one shall be called 'woman,'
for out of 'her man' this one has been taken.”

 

That is why a man leaves his father and mother and clings to his wife,
and the two of them become one body.

 

The word of the LORD.

 


304 St 24: 48-51, 58-67

Bài trích sách Sáng Thế

 

Đấy tớ của ông Áp-ra-ham nói với ông La-ban,
“Tôi đã phủ phục xuống thờ lạy ĐỨC CHÚA
và đã chúc tụng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa
của ông Áp-ra-ham,
chủ tôi, đã dẫn dắt tôi đi đúng đường,
để cưới con gái người anh em họ hàng
của chủ tôi cho con trai ông ấy.
Vậy bây giờ, nếu quý ông muốn tỏ ra có tình
có nghĩa với chủ tôi, thì xin cho tôi biết.
Bằng không, thì xin cũng cho tôi biết
để tôi còn liệu cách này cách khác.”

 

Ông La-ban và ông Bơ-thu-ên trả lời:
“Việc này ĐỨC CHÚA đã xe định,
chúng tôi không thể nói thuận hay nghịch nữa.
Rê-bê-ca đang ở trước mặt ông đây:
Ông cứ đưa nó về.
Nó sẽ thành vợ của con trai chủ ông,
như ĐỨC CHÚA đã phán.”

 

Họ gọi cô Rê-bê-ca ra và hỏi:
“Rê-bê-ca, có muốn đi với ông này không?”
Cô trả lời: “Có.”

 

Thế rồi họ tiễn cô Rê-bê-ca,
người em của họ, đi cùng với người vú nuôi của cô,
người lão bộc của ông Áp-ra-ham
và những người đi theo ông.

 

Họ chúc phúc cho cô Rê-bê-ca rằng:
“Chúc em sinh vạn sinh ngàn.
Giống dòng chiếm cứ cửa thành địch quân.”

 

Cô Rê-bê-ca cùng với các tớ gái đứng dậy,
cỡi lên lạc đà mà đi theo người lão bộc.
Ông nhận cô Rê-bê-ca và ra đi.
Khi ấy cậu I-xa-ác đã bỏ vùng giếng La-khai Rô-i,
và đang ở trong miền Ne-ghép.
Cậu I-xa-ác ra ngoài đồng dạo mát lúc chiều tà.
Ngước mắt lên, cậu thấy một bầy lạc đà đang tiến đến.
Ngước mắt lên, cô Rê-bê-ca thấy cậu I-xa-ác,
cô bèn từ trên lưng lạc đà nhảy xuống và hỏi người lão bộc:
“Người đang đi ngoài đồng tiến về phía chúng ta là ai đó?”

 

Người lão bộc trả lời: “Chủ tôi đấy!”
Cô bèn lấy chiếc khăn che mặt.
Người lão bộc thưa lại với cậu I-xa-ác tất cả những gì ông đã làm.
Cậu I-xa-ác đưa cô Rê-bê-ca vào lều của bà Xa-ra mẹ cậu;
cậu lấy cô làm vợ,
cậu yêu thương cô và khuây hoả được nỗi buồn mất mẹ.

 

Đó là lời CHÚA.

 


305 Gen 24: 48-51, 58-67

A reading from the Book of Genesis

 

The servant of Abraham said to Laban:
“I bowed down in worship to the LORD,
blessing the LORD, the God of my master Abraham,
who had led me on the right road
to obtain the daughter of my master's kinsman for his son.
If, herefore, you have in mind to show true loyalty to my master,
let me know; but if not, let me know that, too.
I can then proceed accordingly.”

 

Laban and his household said in reply:
“This thing comes from the LORD;
we can say nothing to you either for or against it.
Here is Rebekah, ready for you;
take her with you,
that she may become the wife of your master's son,
as the LORD has said.”

 

So they called Rebekah and asked her,
“Do you wish to go with this man?”
She answered, “I do.”

 

At this they allowed their sister Rebekah and her nurse to take leave,
along with Abraham's servant and his men.
Invoking a blessing on Rebekah,
they said:
“Sister, may you grow into thousands of myriads;
And may your descendants gain possession
of the gates of their enemies!”

 

Then Rebekah and her maids started out;
they mounted their camels and followed the man.
So the servant took Rebekah and went on his way.
Meanwhile Isaac had gone from Beer-lahai-roi
and was living in the region of the Negeb.
One day toward evening he went out in the field,
and as he looked around,
he noticed that camels were approaching.
Rebekah, too, was looking about, and when she saw him,
she alighted from her camel and asked the servant,
“Who is the man out there,
walking through the fields toward us?”
“That is my master,” replied the servant.

 

Then she covered herself with her veil.
The servant recounted to Isaac all the things he had done.
Then Isaac took Rebekah into his tent;
he married her, and thus she became his wife.
In his love for her Isaac found solace after the death of his mother Sarah.

 

The word of the LORD.

 


306 Tb 7: 6-14

Bài trích sách Tôbia.

 

Ông Ra-gu-ên liền nhảy tới ôm hôn cậu
và khóc oà lên Ông lên tiếng nói với Tô-bi-a:
“Này cháu, cháu thật là có phước,
vì được một người cha tôn quý và lương thiện! Nhưng khốn thay!
Người công chính hay làm phước bố thí đó đã bị mù loà!”

 

Ông chạy đến ôm lấy cổ Tô-bi-a o và khóc oà lên.
Bà Ét-na, vợ ông, khóc thương ông Tô-bít,
và cô Xa-ra, con gái hai ông bà, cũng khóc luôn.
Rồi ông hạ một con cừu trong đàn,
tiếp đãi họ thật là niềm nở.
Tắm rửa xong, họ vào bàn,
nghiêng người xuống để dùng bữa.

 

Cậu Tô-bi-a nói với thiên sứ Ra-pha-en:
“Anh A-da-ri-a, xin anh nói với ông
Ra-gu-ên gả cô em gái Xa-ra cho em!”

 

Nghe lời ấy, ông Ra-gu-ên bảo cậu thanh niên:
“Này cháu, cháu cứ ăn uống qua đêm nay cho thoải mái,
vì ngoài cháu ra, không ai có quyền cưới Xa-ra,
con gái của chú, cũng như chú đây
không có quyền gả cho người đàn ông nào khác ngoài cháu,
vì cháu là người bà con gần nhất của chú.
Nhưng này cháu, nhất định chú phải cho cháu biết sự thật:
Chú đã gả nó cho bảy người trong số anh em của chúng ta,
nhưng người nào cũng chết ngay trong đêm đến với nó.
Vậy bây giờ, này cháu, cháu cứ ăn uống đi,
rồi Đức Chúa sẽ xếp đặt cho chúng con.

 

Tô-bi-a nói:
“Cháu sẽ không ăn uống gì kể từ bây giờ,
cho đến khi chú định đoạt về chuyện của cháu.”

 

Ông Ra-gu-ên nói:
“Thì chú đang làm đây.
Em nó được gả cho cháu là chiếu theo
phán quyết của sách Mô-sê,
và em nó được gả cho cháu cũng là do Trời định.
Vậy cháu hãy đón nhận cô em cháu đây.
Từ nay, cháu là anh nó và nó là em của cháu.
Từ hôm nay và mãi mãi,
nó được gả cho cháu. Con ơi!
Chúa trên trời sẽ cho chúng con đêm nay được toại nguyện;
Người sẽ thương xót và cho chúng con được bình an.”

 

Rồi ông Ra-gu-ên gọi Xa-ra, con gái ông.
Cô đến bên ông; ông cầm lấy tay cô,
trao cho Tô-bi-a u và nói:
“Con hãy đón nhận em con chiếu theo Lề Luật và
phán quyết ghi trong sách Mô-sê
dạy phải cho nó làm vợ của con.
Hãy lấy nó và đưa nó an lành mạnh khoẻ về nhà cha con;
xin Thiên Chúa trên trời ban cho chúng con được bình an!”

 

Ông gọi mẹ cô và bảo đem giấy tới
rồi viết tờ hôn thú cam kết là đã gả cô cho cậu
chiếu theo phán quyết của Luật Mô-sê.

 

Đó là lời CHÚA.

 


307 Tob 7:6-14

A reading from the Book of Tobit

 

Raphael and Tobiah entered the house of Raquel and greeted him.
Raquel sprang up and kissed Tobiah,
shedding tears of joy.
But when he heard that Tobit had lost his eyesight,
he was grieved and wept aloud.

 

He said to Tobiah:
“My child, God bless you!
You are the son of a noble and good father.
But what a terrible misfortune that such a righteous
and charitable man should be afflicted with blindness!”

 

He continued to weep in the arms of his kinsman Tobiah.
His wife Edna also wept for Tobit;
and even their daughter Sarah began to weep.
Afterward, Raquel slaughtered a ram from the flock
and gave them a cordial reception.
When they had bathed and reclined to eat,
Tobiah said to Raphael,
“Brother Azariah, ask Raquel to let me marry
my kinswoman Sarah.”

 

Raquel overheard the words;
so he said to the boy:
“Eat and drink and be merry tonight,
for no man is more entitled to marry my
daughter Sarah than you, brother.
Besides, not even I have the right to give her to anyone but you,
because you are my closest relative.
But I will explain the situation to you very frankly.
I have given her in marriage to seven men,
all of whom were kinsmen of ours,
and all died on the very night they approached her.
But now, son, eat and drink.
I am sure the LORD will look after you both.”

 

Tobiah answered,
“I will eat or drink nothing until you set aside what belongs to me.”

 

Raquel said to him:
“I will do it.
She is yours according to the decree of the Book of Moses.
Your marriage to her has been decided in heaven!
Take your kinswoman from now on you are her love,
and she is your beloved.
She is yours today and ever after.
And tonight, son,
may the LORD of heaven prosper you both.
May he grant you mercy and peace.”

 

Then Raquel called his daughter Sarah,
and she came to him.
He took her by the hand and gave her to Tobiah with the words:
“Take her according to the law.
According to the decree written in the Book of Moses she is your wife.
Take her and bring her back safely to your father.
And may the God of heaven grant both of you peace and prosperity.”

 

He then called her mother and told her to bring a scroll,
so that he might draw up a marriage contract
stating that he gave Sarah to Tobiah
as his wife according to the decree of the Mosaic law.
Her mother brought the scroll,
and he drew up the contract,
to which they affixed their seal.
Afterward they began to eat and drink.

 

The word of the LORD.

 


308 Tb 8: 4b-8

Bài trích sách Tôbia.

 

Buổi tối hôm thành hôn, Tô-bi-a ngồi dậy,
ra khỏi giường và nói với Xa-ra:
“Đứng lên, em! Chúng ta hãy cầu nguyện,
nài xin Đức Chúa để Người xót thương
và ban ơn cứu độ cho chúng ta!”

 

Cô đứng lên, rồi cả hai bắt đầu cầu nguyện
và nài xin cho mình được cứu độ.
Tô-bi-a bắt đầu như sau:
“Lạy Thiên Chúa của tổ tiên chúng con.
Xin chúc tụng Chúa, xin chúc tụng
Thánh Danh đến muôn thuở muôn đời!
Các tầng trời và toàn thể công trình
của Chúa phải chúc tụng Chúa đến muôn thuở muôn đời!
Chính Chúa đã dựng nên ông A-đam,
dựng nên cho ông một người trợ giúp
và nâng đỡ là bà E-và, vợ ông.
Và dòng dõi loài người đã sinh ra từ hai ông bà.
Chính Chúa đã nói: Con người ở một mình thì không tốt.
Ta sẽ làm cho nó một người trợ giúp giống như nó.
Giờ đây, không phải vì lòng dục,
mà con lấy em con đây, nhưng vì lòng chân thành.
Xin Chúa đoái thương con
và em con cho chúng con được chung sống bên nhau
đến tuổi già.”

 

Rồi họ đồng thanh nói : “A-men! A-men!”

 

Đó là lời CHÚA.

 


309 Tobit 8: 4b-8

A reading from the Book of Tobit

 

On their wedding night Tobiah arose from bed and said to his wife,
“Sister, get up. Let us pray and beg our LORD
to have mercy on us and to grant us deliverance.”

 

Sarah got up, and they started to pray
and beg that deliverance might be theirs.
They began with these words:
“Blessed are you, O God of our fathers;
praised be your name forever and ever.
Let the heavens and all your creation praise you forever.
You made Adam and you gave him
his wife Eve to be his help and support;
and from these two the human race descended.
You said, 'It is not good for the man to be alone;
let us make him a partner like himself.'
Now, LORD, you know that I take this wife of mine
not because of lust, but for a noble purpose.
Call down your mercy on me and on her,
and allow us to live ogether to a happy old age.”

 

They said together, “Amen, amen.”

 

The word of the LORD.

 


310 Cn 31: 10-13, 19-20, 30-31

Bài trích sách Châm Ngôn

 

Tìm đâu ra một người vợ đảm đang?
Nàng quý giá vượt xa châu ngọc.
Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng,
chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc.
Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc
chứ không gây tai hoạ cho chồng.
Nàng tìm kiếm len và vải gai,
rồi vui vẻ ra tay làm việc.
Nàng tra tay vào guồng kéo sợi,
và cầm chắc suốt chỉ trong tay.
Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ
và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.
Duyên dáng là giả trá,
sắc đẹp là phù vân.
Người phụ nữ kính sợ ĐỨC CHÚA
mới đáng cho người đời ca tụng.
Hãy để cho nàng hưởng những thành quả tay nàng làm ra.
Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương
ca tụng do những việc nàng làm.

 

Đó là lời CHÚA.

 


311 Prv 31: 10-13, 19-20, 30-31

A reading from the Book of Proverbs

 

When one finds a worthy wife,
her value is far beyond pearls.
Her husband, entrusting his heart to her,
has an unfailing prize.
She brings him good, and not evil,
all the days of her life.
She obtains wool and flax and makes cloth with skillful hands.
She puts her hands to the distaff,
and her fingers ply the spindle.
She reaches out her hands to the poor,
and extends her arms to the needy.
Charm is deceptive and beauty fleeting;
the woman who fears the LORD is to be praised.
Give her a reward of her labors,
and let her works praise her at the city gates.

 

The word of the LORD.

 


312 Dc 2:8-10, 14, 16a; 8:6-7a

Trích sách Diễm Ca

 

Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây,
kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi.
Người yêu của tôi chẳng khác gì linh dương,
tựa hồ chú nai nhỏ.
Kìa chàng đang đứng sau bức tường nhà,
nhìn qua cửa sổ, rình qua chấn song.
Người yêu của tôi lên tiếng bảo:
“Dậy đi em, bạn tình của anh,
người đẹp của anh, hãy ra đây nào!
Bồ câu của anh ơi, em ẩn trong hốc đá,
trong vách núi cheo leo.
Nào, cho anh thấy mặt,
nào, cho anh nghe tiếng,
vì tiếng em ngọt ngào và mặt em duyên dáng.”
Người tôi yêu thuộc trọn về tôi
và tôi trọn vẹn thuộc về chàng.
Xin đặt em như chiếc ấn trên trái tim anh,
như chiếc ấn trên cánh tay anh.
Phải, tình yêu mãnh liệt như tử thần,
cơn đam mê dữ dội như âm phủ.
Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy,
một ngọn lửa thần thiêng.
Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu,
sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp.

 

Đó là lời CHÚA.

 


313 Song 2: 8-10, 14, 16a; 8:6-7a

A reading from the Song of Songs

 

Hark! my lover here he comes springing across the mountains,
leaping across the hills.
My lover is like a gazelle or a young stag.
Here he stands behind our wall,
gazing through the windows,
peering through the lattices.
My lover speaks; he says to me,
“Arise, my beloved, my dove,
my beautiful one, and come!
O my dove in the clefts of the rock,
in the secret recesses of the cliff,
Let me see you, let me hear your voice,
for your voice is sweet, and you are lovely.”
My lover belongs to me and I to him.
He says to me:
“Set me as a seal on your heart,
as a seal on your arm;
For stern as death is love,
relentless as the nether world is devotion;
its flames are a blazing fire.
Deep waters cannot quench love,
nor floods sweep it away.”

 

The word of the LORD.

 


314 Hc 26:1-4, 13-16

Trích sách Huấn Ca

 

Phúc thay ai cưới được vợ hiền,
tuổi thọ sẽ tăng lên gấp đôi.
Vợ đảm đang khiến chồng được sung sướng,
được an vui suốt cả cuộc đời.
Vợ hiền là số tốt phận may dành cho những người kính sợ Đức CHÚA:
Giàu hay nghèo,
l òng vẫn cứ an vui,
lúc nào nét mặt cũng tươi cười.
Vợ có duyên thì chồng hạnh phúc,
vợ khôn khéo thì chồng được nở mặt nở mày.
Phụ nữ ít nói là quà Đức Chúa ban,
không chi sánh bằng người có giáo dục.
Phụ nữ nết na là ân phúc tuyệt vời;
không chi quý giá bằng người tiết hạnh.
Người vợ hiền trong cửa nhà ngăn nắp đẹp
như vầng hồng trên chốn cao xanh của Đức CHÚA.

 

Đó là lời CHÚA.

 


315 Sir 26: 1-4, 13-16

A reading from the Book of Sirach

 

Blessed the husband of a good wife,
twice-lengthened are his days;
A worthy wife brings joy to her husband,
peaceful and full is his life.
A good wife is a generous gift bestowed upon him
who fears the LORD;
Be he rich or poor, his heart is content,
and a smile is ever on his face.
A gracious wife delights her husband,
her thoughtfulness puts flesh on his bones;
A gift from the LORD is her governed speech,
and her firm virtue is of surpassing worth.
Choicest of blessings is a modest wife,
priceless her chaste soul.
A holy and decent woman adds grace upon grace;
indeed, no price is worthy of her temperate soul.
Like the sun rising in the LORD's heavens,
the beauty of a virtuous wife is the radiance of her home.

 

The word of the LORD.

 


316 Gr 31:31-32a, 33-34a

Bài trích ngôn sứ Giê-rê-mi-a..

 

Này sẽ đến những ngày sấm ngôn của ĐỨC CHÚA,
Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en
và nhà Giu-đa một giao ước mới,
không giống như giao ước.
Ta đã lập với cha ông chúng,
ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập;
Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó
sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng,
sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta.
Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng,
còn chúng sẽ là dân của Ta.
Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau,
kẻ này nói với người kia:
“Hãy học cho biết ĐỨC CHÚA”,
vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn,
sẽ biết Ta sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

 

Đó là lời CHÚA.

 


317 Jer 31: 31-32a, 33-34a

A reading from the Book of the Prophet Jeremiah

 

The days are coming, says the LORD,
when I will make a new covenant with the house of Israel
and the house of Judah.
It will not be like the covenant I made with their fathers:
the day I took them by the hand to lead them forth
from the land of Egypt.
But this is the covenant which I will make with the house of Israel
after those days, says the LORD.
I will place my law within them,
and write it upon their hearts;
I will be their God,
and they shall be my people.
No longer will they have need to teach their friends
and relatives how to know the LORD.
All, from least to greatest, shall know me, says the LORD.

 

The word of the LORD.

350 Tv 32(33), 12 và 18, 20-21, 22

Đ./ (5b) Lượng từ bi Chúa chải khắp địa cầu.

 

Hạnh phúc thay quốc gia được CHÚA làm Chúa Tể,
hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp.
CHÚA để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương. Đ./

 

Tâm hồn chúng tôi đợi trông CHÚA,
bởi Người luôn che chở phù trì.
Vâng, có Người, chúng tôi mừng rỡ,
vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh. Đ.

 

Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy CHÚA,
như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài. Đ./

 


351 Ps 33:12 and 18, 20-21, 22

R./ (5b) The earth is full of the goodness of the Lord.

 

Blessed the nation whose God is the Lord,
the people he has chosen for his own inheritance.
But see, the eyes of the Lord are upon those who fear him,
upon those who hope for his kindness. R./

 

Our soul waits for the Lord,
who is our help and our shield,
For in him our hearts rejoice;
in his holy name we trust. R./

 

May your kindness, O Lord, be upon us
who have put our hope in you. R./

 


352 Tv 33(34), 2-3.4-5.6-7.8-9

Đ./ (2a) Tôi Chúc tụng CHÚA trong mọi lúc.

 

Tôi sẽ không ngừng chúc tụng CHÚA,
câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.
Linh hồn tôi hãnh diện vì CHÚA
xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Đ./

 

Hãy cùng tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA,
ta đồng thanh tán tụng danh Người.
Tôi đã tìm kiếm CHÚA, và Người đáp lại,
giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Đ./

 

Ai nhìn lên CHÚA sẽ vui tươi hớn hở,
không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi.
Kẻ nghèo này kêu lên và CHÚA đã nhậm lời,
cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Đ./

 

Sứ thần của CHÚA đóng trại chung quanh
để giải thoát những ai kính sợ Người.
Hãy nghiệm xem CHÚA tốt lành biết mấy:
hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người! Đ./

 


353 Ps 33: 2-3, 4-5, 6-7, 8-9

R./ (2a) I will bless the Lord at all times.
or:
R./ (9a) Taste and see the goodness of the Lord.

 

I will bless the Lord at all times;
his praise shall be ever in my mouth.
Let my soul glory in the Lord;
the lowly will hear me and be glad. R./

 

Glorify the Lord with me,
let us together extol his name.
I sought the Lord, and he answered me
and delivered me from all my fears. R./

 

Look to him that you may be radiant with joy,
and your faces may not blush with shame.
When the poor one called out, the Lord heard,
and from all his distress he saved him. R./

 

The angel of the Lord encamps
around those who fear him, and delivers them.
Taste and see how good the Lord is;
blessed the man who takes refuge in him. R./

 

 


354 Tv 102(103),1-2. 8 và 13, 17-18a

Đ./ (8a) CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu.

 

Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Đ./

 

CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. Đ./

 

Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con cháu,
cả những ai giữ giao ước của Người. Đ./

 

 


355 Ps 103:1-2, 8 and 13, 17-18a

R./ (8a) The Lord is kind and merciful.
or:
R./ (17) The Lord's kindness is everlasting to those who fear him.

 

Bless the Lord, O my soul;
and all my being, bless his holy name.
Bless the Lord, O my soul,
and forget not all his benefits. R./

 

Merciful and gracious is the Lord,
slow to anger and abounding in kindness.
As a father has compassion on his children,
so the Lord has compassion on those who fear him. R./

 

But the kindness of the Lord is from eternity
to eternity toward those who fear him,
And his justice towards children's children
among those who keep his covenant. R./

 

 


356 Tv 112 (111), 1bc-2. 3-4. 5-7a. 7b-8. 9

Đ./ Phúc thay người hết lòng mộ mến huấn lệnh Ngài.

 

Hạnh phúc thay, người kính sợ CHÚA,
những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban.
Trên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường,
dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc. Đ./

 

Gia đình họ phú quý giàu sang,
đức công chính của họ tồn tại muôn đời.
Giữa tối tăm bừng lên một ánh sáng
chiếu rọi kẻ ngay lành.
đó là người từ bi nhân hậu và công chính. Đ./

 

Phúc thay người biết cảm thương và cho vay mượn,
biết theo lẽ phải mà thu xếp công việc mình.
Họ sẽ không bao giờ lay chuyển,
thiên hạ muôn đời còn tưởng nhớ chính nhân.
Họ không lo phải nghe tin dữ. Đ./

 

Hằng an tâm và tin cậy CHÚA,
luôn vững lòng không sợ hãi chi
và rốt cuộc coi khinh lũ địch thù. Đ./

 

Kẻ túng nghèo, họ rộng tay làm phúc,
đức công chính của họ tồn tại muôn đời,
uy thế họ vươn cao rực rỡ. Đ./

 

 


357 Ps 112:1bc-2, 3-4, 5-7a, 7b-8, 9

R./ Blessed the man who greatly delights in the Lord's commands.
or:
R./ Alleluia.

 

Blessed the man who fears the Lord,
who greatly delights in his commands.
His posterity shall be mighty upon the earth;
the upright generation shall be blessed. R./

 

Wealth and riches shall be in his house;
his generosity shall endure forever.
Light shines through the darkness for the upright;
he is gracious and merciful and just. R./

 

Well for the man who is gracious and lends,
who conducts his affairs with justice;
He shall never be moved;
the just one shall be in everlasting remembrance.
An evil report he shall not fear. R./

 

His heart is firm, trusting in the Lord.
His heart is steadfast; he shall not fear
till he looks down upon his foes. R./

 

Lavishly he gives to the poor;
his generosity shall endure forever;
his horn shall be exalted in glory. R./

 

 


358 Tv 128 (127), 1-2. 3. 4-5

Đ./ Phúc thay những ai kính sợ CHÚA.
hoặc:
Đ./ Đó là ân lộc dành cho những kẻ kính sợ CHÚA.

 

Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ CHÚA,
ăn ở theo đường lối của Người.
Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng,
bạn quả là lắm phúc nhiều may. Đ./

 

Hiền thê bạn trong cửa trong nhà
khác nào cây nho đầy hoa trái;
và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn,
xúm xít tại bàn ăn. Đ./

 

Đó chính là phúc lộc CHÚA
dành cho kẻ kính sợ Người.
Xin CHÚA từ Xi-on xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc.
Ước chi trong suốt cả cuộc đời
bạn được thấy Giê-ru-sa-lem phồn thịnh,
được sống lâu bên đàn con cháu Đ./

 

 


359 Ps 128:1-2, 3, 4-5

R./ Blessed are those who fear the Lord.
or:
R./ See how the Lord blesses those who fear him.

 

Blessed are you who fear the Lord,
who walk in his ways!
For you shall eat the fruit of your handiwork;
blessed shall you be, and favored. R./

 

Your wife shall be like a fruitful vine
in the recesses of your home;
Your children like olive plants
around your table. R./

 

Behold, thus is the man blessed
who fears the Lord.
The Lord bless you from Zion:
may you see the prosperity of Jerusalem
all the days of your life. R./

 

 


360 Tv 145(144), 8-9. 10 và 15. 17-18

Đ./ (9a) CHÚA nhân ái đối với mọi người.

 

CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương.
CHÚA nhân ái đối với mọi người,
tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên. Đ./

 

Lạy CHÚA, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ,
kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài,
Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa,
và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Đ./

 

CHÚA công minh trong mọi đường lối Chúa,
đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.
CHÚA gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa,
mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người. Đ./

 

 


361 Ps 145:8-9, 10 and 15, 17-18

R./ (9a) The Lord is compassionate toward all his works.

 

The Lord is gracious and merciful,
slow to anger and of great kindness.
The Lord is good to all
and compassionate toward all his works. R./

 

Let all your works give you thanks, O Lord,
and let your faithful ones bless you.
The eyes of all look hopefully to you
and you give them their food in due season. R./

 

The Lord is just in all his ways
and holy in all his works.
The Lord is near to all who call upon him,
to all who call upon him in truth. R./

 

 


362 Tv 148(149), 1-2. 3-4. 9-10. 11-13a. 13c-14a

Đ./ (13a) Nào ca tụng thánh danh ĐỨC CHÚA.

 

Alleluia.
Ca tụng CHÚA đi, tự cõi trời thăm thẳm,
ca tụng Người, trên chốn cao xanh.
Ca tụng Chúa đi, mọi sứ thần của Chúa,
ca tụng Người, hỡi toàn thể thiên binh! Đ./

 

Ca tụng Chúa đi, này vầng ô bóng nguyệt,
ca tụng Người, muôn tinh tú rạng soi.
Ca tụng Chúa đi, hỡi cửu trùng cao vút,
cả khối nước phía trên bầu trời. Đ./

 

Núi với đồi trùng trùng điệp điệp,
cây ăn trái và đủ loại bá hương,
thú vật rừng hoang cùng là gia súc,
loài bò sát và mọi giống chim trời. Đ./

 

Bậc vua chúa cũng như hàng lê thứ,
khanh tướng công hầu, thủ lãnh trần gian,
ai là nam thanh, ai là nữ tú,
khắp mặt bô lão, khắp mặt nhi đồng!
Nào ca tụng thánh danh ĐỨC CHÚA. Đ./

 

ĐỨC CHÚA oai phong vượt quá đất trời,
thế lực dân Người, Người đã nâng cao. Đ./

 

 


363 Ps 148:1-2, 3-4, 9-10, 11-13a, 13c-14a

R./ (13a) Let all praise the name of the Lord.
or:
R./ Alleluia.

 

Alleluia.
Praise the Lord from the heavens,
praise him in the heights;
Praise him, all you his angels,
praise him, all you his hosts. R./

 

Praise him, sun and moon;
praise him, all you shining stars.
Praise him, you highest heavens,
and you waters above the heavens. R./

 

You mountains and all you hills,
you fruit trees and all you cedars;
You wild beasts and all tame animals,
you creeping things and winged fowl. R./

 

Let the kings of the earth and all peoples,
the princes and all the judges of the earth,
Young men too, and maidens,
old men and boys,
Praise the name of the Lord,
for his name alone is exalted. R./

 

His majesty is above earth and heaven,
and he has lifted his horn above the people. R./

400 Rm 8:31b-35, 37-39

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.

 

Thưa anh em, Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta,
ai còn chống lại được chúng ta?
Đến như chính Con Một,
Thiên Chúa cũng chẳng tiếc,
nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta.
Một khi đã ban Người Con đó,
lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?
Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn?
Chẳng lẽ Thiên Chúa,
Đấng làm cho nên công chính?
Ai sẽ kết án họ?
Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô,
Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại,
và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô?
Phải chăng là gian truân,
khốn khổ, đói rách, hiểm nguy,
bắt bớ, gươm giáo?
Nhưng trong mọi thử thách ấy,
chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.
Đúng thế, tôi tin chắc rằng:
cho dầu là sự chết hay sự sống,
thiên thần hay ma vương quỷ lực,
hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,
trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác,
không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu
của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.

 

Đó là lời CHÚA.

 


401 Rom 8: 31b-35, 37-39

A reading from the Letter of Saint Paul to the Romans

 

Brothers and sisters: If God is for us, who can be against us?
He did not spare his own Son but handed him over for us all,
how will he not also give us everything else along with him?
Who will bring a charge against God's chosen ones?
It is God who acquits us.
Who will condemn?
It is Christ Jesus who died,
rather, was raised, who also is at the right hand of God,
who indeed intercedes for us.
What will separate us from the love of Christ?
Will anguish, or distress, or persecution,
or famine, or nakedness, or peril, or the sword?
No, in all these things,
we conquer overwhelmingly through him who loved us.
For I am convinced that neither death,
nor life, nor angels, nor principalities,
nor present things, nor future things,
nor powers, nor height, nor depth,
nor any other creature will be able to separate us
from the love of God in Christ Jesus our Lord.

 

The word of the LORD.

 


402 Rm 12:1-2, 9-18

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.

 

Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta,
tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình
làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.
Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người.
Anh em đừng có rập theo đời này,
nhưng hãy cải biến con người anh em bằng
cách đổi mới tâm thần,
hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa:
cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa,
cái gì hoàn hảo.
Lòng bác ái không được giả hình giả bộ.
Anh em hãy gớm ghét điều dữ,
tha thiết với điều lành;
thương mến nhau với tình huynh đệ,
coi người khác trọng hơn mình;
nhiệt thành, không trễ nải;
lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa.
Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng,
cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân,
và chuyên cần cầu nguyện.
Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh
đang lâm cảnh thiếu thốn,
và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.
Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em,
chúc lành chứ đừng nguyền rủa:
vui với người vui, khóc với người khóc.
Hãy đồng tâm nhất trí với nhau,
đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn.
Anh em đừng cho mình là khôn ngoan,
đừng lấy ác báo ác,
hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt.
Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được,
để sống hoà thuận với mọi người.

 

Đó là lời CHÚA.

 


403 Rom 12: 1-2, 9-18

A reading from the Letter of Saint Paul to the Romans

 

I urge you, brothers and sisters,
by the mercies of God,
to offer your bodies as a living sacrifice,
holy and pleasing to God, your spiritual worship.
Do not conform yourselves to this age
but be transformed by the renewal of your mind,
that you may discern what is the will of God,
what is good and pleasing and perfect.
Let love be sincere;
hate what is evil, hold on to what is good;
love one another with mutual affection;
anticipate one another in showing honor.
Do not grow slack in zeal,
be fervent in spirit, serve the Lord.
Rejoice in hope, endure in affliction, persevere in prayer.
Contribute to the needs of the holy ones, exercise hospitality.
Bless those who persecute you, bless and do not curse them.
Weep with those who weep.
Have the same regard for one another;
do not be haughty but associate with the lowly;
do not be wise in your own estimation.
Do not repay anyone evil for evil;
be concerned for what is noble in the sight of all.
If possible, on your part, live at peace with all.

 

The word of the LORD.

 


404 Rm 15:1b-3a, 5-7, 13

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.

 

Thưa anh em, chúng ta phải nâng đỡ những người yếu đuối,
không có đức tin vững mạnh,
chứ không phải chiều theo sở thích của mình.
Mỗi người chúng ta hãy chiều theo sở thích kẻ khác,
vì lợi ích của họ, và để xây dựng.
Thật vậy, Đức Ki-tô đã không chiều theo sở thích của mình.
Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi,
làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau,
như Đức Ki-tô Giê-su đòi hỏi.
Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa,
là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Vậy, anh em hãy đón nhận nhau,
như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em,
để làm rạng danh Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng,
ban cho anh em được chan chứa niềm vui
và bình an nhờ đức tin,
để nhờ quyền năng của Thánh Thần,
anh em được tràn trề hy vọng.

 

Đó là lời CHÚA.

 


405 Rom 15: 1b-3a, 5-7, 13

A reading from the Letter of Saint Paul to the Romans

 

Brothers and sisters: We ought to put up with the failings of the weak
and not to please ourselves;
let each of us please our neighbor for the good,
for building up.
For Christ did not please himself.
May the God of endurance
and encouragement grant you to think in harmony with one another,
in keeping with Christ Jesus,
that with one accord you may with one voice glorify the God
and Father of our Lord Jesus Christ.
Welcome one another,
then, as Christ welcomed you,
or the glory of God.
May the God of hope fill you with all joy
and peace in believing,
so that you may abound in hope by the power of the Holy Spirit.

 

The word of the LORD.

 


406 1Cr 6:13c-15a, 17-20

Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.

 

Thưa anh em, thân xác con người không phải để gian dâm,
mà để phụng sự Chúa,
vì Chúa làm chủ thân xác.
Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại;
chính Người cũng sẽ dùng quyền năng
của mình mà làm cho chúng ta sống lại.
Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em
là phần thân thể của Đức Ki-tô sao?
Ai đã kết hợp với Chúa,
thì nên một tinh thần với Người.
Anh em hãy tránh xa tội gian dâm.
Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình,
còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình.
Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em
là Đền Thờ của Thánh Thần sao?
Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em
là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em.
Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa,
vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em.
Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.

 

Đó là lời CHÚA.

 


407 1 Cor 6: 13c-15a, 17-20

A reading from the first Letter of Saint Paul to the Corinthians

 

Brothers and sisters: The body is not for immorality,
but for the Lord, And the Lord is for the body;
God raised the Lord and will also raise us by his power.
Do you not know that your bodies are members of Christ?
Whoever is joined to the Lord becomes one spirit with him.
Avoid immorality.
Every other sin a person commits is outside the body,
but the immoral person sins against his own body.
Do you not know that your body is a temple
of the Holy Spirit within you,
whom you have from God,
and that you are not your own?
For you have been purchased at a price.
Therefore glorify God in your body.

 

The word of the LORD.

 


408 1Cr 12:31-13:7

Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.

 

Thưa anh em, trong các ân huệ của Thiên Chúa,
anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất.
Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.
Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người
và của các thiên thần đi nữa,
mà không có đức mến,
thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,
chũm choẹ xoang xoảng.
Giả như tôi được ơn nói tiên tri,
và được biết hết mọi điều bí nhiệm,
mọi lẽ cao siêu,
hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non,
mà không có đức mến,
thì tôi cũng chẳng là gì.
Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí,
hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt,
mà không có đức mến,
thì cũng chẳng ích gì cho tôi.
Đức mến thì nhẫn nhục,
hiền hậu, không ghen tuông,
không vênh vang,
không tự đắc,
không làm điều bất chính,
không tìm tư lợi,
không nóng giận,
không nuôi hận thù,
không mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Đức mến tha thứ tất cả,
tin tưởng tất cả,
hy vọng tất cả,
chịu đựng tất cả.

 

Đó là lời CHÚA.

 


409 1 Cor 12: 31-13:7

A reading from the first Letter of Saint Paul to the Corinthians

 

Brothers and sisters: Strive eagerly for the greatest spiritual gifts.
But I shall show you a still more excellent way.
If I speak in human and angelic tongues but do not have love,
I am a resounding gong or a clashing cymbal.
And if I have the gift of prophecy
and comprehend all mysteries and all knowledge;
if I have all faith so as to move mountains,
but do not have love,
I am nothing.
If I give away everything I own,
and if I hand my body over so that I may boast
but do not have love,
I gain nothing.
Love is patient,
love is kind.
It is not jealous,
is not pompous,
it is not inflated,
it is not rude,
it does not seek its own interests,
it is not quick-tempered,
it does not brood over injury,
it does not rejoice over wrongdoing
but rejoices with the truth.
It bears all things,
believes all things,
hopes all things,
endures all things.

 

The word of the LORD.

 


410 Ep 5: 2a, 21-33

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-sô.

 

Thưa anh em, hãy sống trong tình bác ái,
như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta.
Vì lòng kính sợ Đức Ki-tô,
anh em hãy tùng phục lẫn nhau.
Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa,
vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh,
chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh,
thân thể của Người.
Và như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào,
thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy.
Người làm chồng, hãy yêu thương vợ,
như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh
và hiến mình vì Hội Thánh;
như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước
và lời hằng sống,
để trước mặt Người,
có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy,
không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào,
nhưng thánh thiện và tinh tuyền.
Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình.
Yêu vợ là yêu chính mình.
Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ;
trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình,
cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh,
vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người.
Sách Thánh có lời chép rằng:
Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình,
và cả hai sẽ thành một xương một thịt.
Mầu nhiệm này thật là cao cả.
Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh.
Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình,
còn vợ thì hãy kính sợ chồng.

 

Đó là lời CHÚA.

 


411 Eph 5: 2a, 21-33

A reading from the Letter of Saint Paul to the Ephesians

 

Brothers and sisters: Live in love,
as Christ loved us and handed himself over for us.
Be subordinate to one another out of reverence for Christ.
Wives should be subordinate to their husbands as to the Lord.
For the husband is head of his wife just as Christ is head of the Church,
he himself the savior of the body.
As the Church is subordinate to Christ,
so wives should be subordinate to their husbands in everything.
Husbands, love your wives, even as Christ loved the Church
and handed himself over for her to sanctify her,
cleansing her by the bath of water with the word,
that he might present to himself the Church in splendor,
without spot or wrinkle or any such thing,
that she might be holy and without blemish.
So also husbands should love their wives as their own bodies.
He who loves his wife loves himself.
For no one hates his own flesh but rather nourishes and cherishes it,
even as Christ does the Church,
because we are members of his Body.
For this reason a man shall leave his father
and his mother and be joined to his wife,
and the two shall become one flesh.
This is a great mystery,
but I speak in reference to Christ and the Church.
In any case, each one of you should love his wife as himself,
and the wife should respect her husband.

 

The word of the LORD.

 


412 Pl 4: 4-9

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Phi-líp-phê.

 

Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa.
Tôi nhắc lại: vui lên anh em!
Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi,
Chúa đã gần đến.
Anh em đừng lo lắng gì cả,
nhưng trong mọi hoàn cảnh,
anh em cứ đem lời cầu khẩn,
van xin và tạ ơn,
mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện.
Và bình an của Thiên Chúa là bình an vượt lên trên mọi hiểu biết,
sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su.
Ngoài ra, thưa anh em, những gì là chân thật,
cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền,
những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt,
những gì là đức hạnh, đáng khen,
thì xin anh em hãy để ý.
Những gì anh em đã học hỏi,
đã lãnh nhận, đã nghe,
đã thấy ở nơi tôi,
thì hãy đem ra thực hành,
và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.

 

Đó là lời CHÚA.

 


413 Phi 4:4-9

A reading from the Letter of Saint Paul to the Philippians

 

Brothers and sisters: Rejoice in the Lord always.
I shall say it again: rejoice!
Your kindness should be known to all.
The Lord is near.
Have no anxiety at all,
but in everything,
by prayer and petition,
with thanksgiving,
make your requests known to God.
Then the peace of God that surpasses all understanding
will guard your hearts and minds in Christ Jesus.
Finally, brothers and sisters,
whatever is true, whatever is honorable,
whatever is just, whatever is pure,
whatever is lovely, whatever is gracious,
if there is any excellence
and if there is anything worthy of praise,
think about these things.
Keep on doing what you have learned
and received and heard and seen in me.
Then the God of peace will be with you.

 

The word of the LORD.

 


414 Cl 3: 12-17

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-lô-xê.

 

Thưa anh em, anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa,
hiến thánh và yêu thương.
Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm,
nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại.
Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau,
nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia.
Chúa đã tha thứ cho anh em,
thì anh em cũng vậy,
anh em phải tha thứ cho nhau.
Trên hết mọi đức tính,
anh em phải có lòng bác ái:
đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.
Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em,
vì trong một thân thể duy nhất,
anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó.
Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.
Ước chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú.
Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan.
Để tỏ lòng biết ơn,
anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát
dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh,
thánh thi và thánh ca,
do Thần Khí linh hứng.
Anh em có làm gì, nói gì,
thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su
và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.

 

Đó là lời CHÚA.

 


415 Col 3: 12-17

A reading from the Letter of Saint Paul to the Colossians

 

Brothers and sisters: Put on, as God's chosen ones,
holy and beloved,
heartfelt compassion,
kindness, humility,
gentleness, and patience,
bearing with one another and forgiving one another,
if one has a grievance against another;
as the Lord has forgiven you, so must you also do.
And over all these put on love,
that is, the bond of perfection.
And let the peace of Christ control your hearts,
the peace into which you were also called in one Body.
And be thankful.
Let the word of Christ dwell in you richly,
as in all wisdom you teach and admonish one another,
singing psalms, hymns,
and spiritual songs with gratitude in your hearts to God.
And whatever you do, in word or in deed,
do everything in the name of the Lord Jesus,
giving thanks to God the Father through him.

 

The word of the LORD.

 


416 Dt 13: 1-4a, 5-6b

Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái.

 

Thưa anh em, anh em hãy giữ mãi tình huynh đệ.
Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách,
vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón
các thiên thần mà không biết.
Anh em hãy nhớ đến các người bị xiềng xích,
chẳng khác gì anh em cũng bị xiềng xích với họ;
anh em hãy nhớ đến những người bị hành hạ,
chẳng khác gì mình với họ chỉ là một thân thể.
Ai nấy phải tôn trọng hôn nhân,
chớ làm cho loan phòng ra ô uế.
Trong cách ăn nết ở,
anh em đừng có ham tiền,
hãy coi những gì mình đang có là đủ,
vì Thiên Chúa đã phán: Ta sẽ không bỏ rơi ngươi,
Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi!
đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà nói:
Có Chúa ở cùng tôi mà bênh đỡ, tôi chẳng sợ gì.

 

Đó là lời CHÚA.

 


417 Heb 13: 1-4a, 5-6b

A reading from the Letter to the Hebrews

 

Brothers and sisters: Let mutual love continue.
Do not neglect hospitality,
for through it some have unknowingly entertained angels.
Be mindful of prisoners as if sharing their imprisonment,
and of the ill-treated as of yourselves,
for you also are in the body.
Let marriage be honored among all
and the marriage bed be kept undefiled.
Let your life be free from love of money
but be content with what you have,
for he has said,
I will never forsake you or abandon you.
Thus we may say with confidence:
The Lord is my helper, and I will not be afraid.

 

The word of the LORD.

 


418 1Pr 3: 1-9

Bài trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô tông đồ.

 

Anh em thân mến, chị em là những người vợ,
chị em hãy phục tùng chồng,
như vậy, dù có những người chồng không tin Lời Chúa,
thì họ cũng sẽ được chinh phục nhờ cách ăn nết ở
của chị em mà không cần chị em phải nói lời nào,
vì họ thấy cách ăn nết ở trinh tiết và cung kính của chị em.
Ước chi vẻ duyên dáng của chị em không hệ tại cái
mã bên ngoài như kết tóc,
đeo vòng vàng, hay ăn mặc xa hoa;
nhưng là con người nội tâm thầm kín,
với đồ trang sức không bao giờ hư hỏng là tính thuỳ mị,
hiền hoà: đó chính là điều quý giá trước mặt Thiên Chúa.
Xưa kia, các phụ nữ thánh thiện là
những người trông cậy vào Thiên Chúa,
cũng đã trang điểm như thế;
họ đã phục tùng chồng.
Như bà Xa-ra, bà đã vâng phục ông Áp-ra-ham,
và gọi ông là “ông chủ”.
Chị em là con cái của bà,
nếu chị em làm điều thiện
và không sợ hãi trước bất cứ nỗi kinh hoàng nào.
Cũng vậy, anh em là những người chồng,
trong cuộc sống chung,
anh em nên hiểu rằng đàn bà thuộc phái yếu;
hãy tỏ lòng quý trọng vì họ cũng được
hưởng sự sống là hồng ân Chúa ban.
Như thế, việc cầu nguyện của anh chị em sẽ không bị ngăn trở.
Sau hết, tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí,
thông cảm với nhau,
hãy yêu thương nhau như anh em,
hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn.
Đừng lấy ác báo ác,
đừng lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa,
nhưng trái lại, hãy chúc phúc,
vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi
chính là để thừa hưởng lời chúc phúc.

 

Đó là lời CHÚA.

 


419 Pet 3: 1-9

A reading from the first Letter of Saint Peter

 

Beloved: You wives should be subordinate to your husbands so that,
even if some disobey the word,
they may be won over without a word by their wives' conduct
when they observe your reverent and chaste behavior.
Your adornment should not be an external one:
braiding the hair, wearing gold jewelry,
or dressing in fine clothes,
but rather the hidden character of the heart,
expressed in the imperishable beauty of a gentle
and calm disposition,
which is precious in the sight of God.
For this is also how the holy women who hoped in God
once used to adorn themselves
and were subordinate to their husbands;
thus Sarah obeyed Abraham,
calling him “lord.”
You are her children when you do what is good
and fear no intimidation.
Likewise, you husbands should live with your wives in understanding,
showing honor to the weaker female sex,
since we are joint heirs of the gift of life,
so that your prayers may not be hindered.
Finally, all of you,
be of one mind, sympathetic,
loving toward one another,
compassionate, humble.
Do not return evil for evil,
or insult for insult;
but, on the contrary,
a blessing, because to this you were called,
that you might inherit a blessing.

 

The word of the LORD.

 


420 1Ga 3: 18-24

Bài trích thư thứ nhất của thánh Gio-an tông đồ.

 

Hỡi anh em là những người con bé nhỏ,
chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi,
nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.
Căn cứ vào điều đó,
chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật,
và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa.
Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta,
Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta,
và Người biết hết mọi sự.
Anh em thân mến,
nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta,
chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa.
Và bất cứ điều gì chúng ta xin,
chúng ta được Người ban cho,
bởi vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người
và làm những gì đẹp ý Người.
Đây là điều răn của Người:
chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô,
Con của Người, và phải yêu thương nhau,
theo điều răn Người đã ban cho chúng ta.
Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa
và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.
Căn cứ vào điều này,
chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta,
đó là nhờ Thần Khí,
Thần Khí Người đã ban cho chúng ta.

 

Đó là lời CHÚA.

 


421 1Jn 3:18-24

A reading from the first Letter of Saint John

 

Children, let us love not in word or speech but in deed and truth.
Now this is how we shall know that we belong to the truth
and reassure our hearts before him in whatever our hearts condemn,
for God is greater than our hearts and knows everything.
Beloved, if our hearts do not condemn us,
we have confidence in God and receive from him whatever we ask,
because we keep his commandments and do what pleases him.
And his commandment is this:
we should believe in the name of his Son, Jesus Christ,
and love one another just as he commanded us.
Those who keep his commandments remain in him,
and he in them,
and the way we know that he remains in us
is from the Spirit that he gave us.

 

The word of the LORD.

 


422 1Ga 4: 7-12

Bài trích thư thứ nhất của thánh Gio-an tông đồ.

 

Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Phàm ai yêu thương,
thì đã được Thiên Chúa sinh ra,
và người ấy biết Thiên Chúa.
Ai không yêu thương,
thì không biết Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa là tình yêu.
Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này:
Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian
để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.
Tình yêu cốt ở điều này:
không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,
và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.
Anh em thân mến,
nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế,
chúng ta cũng phải yêu thương nhau.
Thiên Chúa, chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.
Nếu chúng ta yêu thương nhau,
thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta,
và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo.

 

Đó là lời CHÚA.

 


423 1Jn 4: 7-12

A reading from the first Letter of Saint John.

 

Beloved, let us love one another,
because love is of God;
everyone who loves is begotten by God and knows God.
Whoever is without love does not know God,
for God is love.
In this way the love of God was revealed to us:
God sent his only-begotten Son into the world
so that we might have life through him.
In this is love:
not that we have loved God,
but that he loved us and sent his Son as expiation for our sins.
Beloved, if God so loved us,
we also must love one another.
No one has ever seen God.
Yet, if we love one another,
God remains in us,
and his love is brought to perfection in us.

 

The word of the LORD.

 


424 Kh 19:1, 5-9a

Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.

 

Tôi là Gio-an, tôi nghe như có tiếng hô lớn
của đoàn người đông đảo ở trên trời vang lên:
“Ha-lê-lui-a! Thiên Chúa ta thờ là Đấng Cứu Độ,
Đấng vinh hiển uy quyền!”
Rồi từ ngai có tiếng phát ra:
“Nào ca ngợi Thiên Chúa chúng ta,
hỡi tất cả tôi trung của Chúa,
hỡi những ai lớn nhỏ hằng kính sợ Người!”
Tôi lại nghe như có tiếng hô của đoàn người đông đảo,
nghe như tiếng nước lũ,
như tiếng sấm vang dữ dội:
“Ha-lê-lui-a! Đức Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng
đã lên ngôi hiển trị.
Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ dâng Chúa lời tôn vinh,
vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên,
và Hiền Thê của Người đã trang điểm sãn sàng,
nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền.”
Vải gai đây chỉ những việc lành của dân thánh.
Thiên thần bảo tôi:
“Hãy viết: Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên!”

 

Đó là lời CHÚA.

 


425 Rev 19:1, 5-9a

A reading from the Book of Revelation

 

I, John, heard what sounded like the loud voice
of a great multitude in heaven,
saying: “Alleluia! Salvation, glory, and might belong to our God.”
A voice coming from the throne said:
“Praise our God, all you his servants,
and you who revere him,
small and great.”
Then I heard something like the sound of a great multitude
or the sound of rushing water or mighty peals of thunder,
as they said:
“Alleluia! The Lord has established his reign,
our God, the almighty.
Let us rejoice and be glad and give him glory.
For the wedding day of the Lamb has come,
his bride has made herself ready.
She was allowed to wear a bright,
clean linen garment.”
(The linen represents the righteous deeds of the holy ones.)
Then the angel said to me,
“Write this: Blessed are those who have been called
to the wedding feast of the Lamb.”

 

The word of the LORD.

440 1 John 4:7b

Everyone who loves is begotten of GOD and knows GOD.

 

 


441 1 Ga 4, 7b

Người nào yêu thương thì đã được sinh ra bởi Thiên CHÚA
và nhận biết Thiên CHÚA

 

 


442 1 John 4:8b and 11

GOD is love.
If GOD loved us, we also must love one another.

 

 


443 1 Ga 4, 8b và; 11

Thiên CHÚA là tình yêu;
chúng ta phải yêu thương nhau
như Thiên CHÚA đã yêu chúng ta.

 

 


444 1 John 4:12

If we love one another,
GOD remains in us
and his love is brought to perfection in us.

 

 


445 1 Ga 4, 12

Nếu chúng ta yêu thương nhau,
thì Thiên CHÚA ở trong chúng ta
và tình yêu của Ngài nơi chúng ta nên trọn hảo.

 

 


446 1 John 4:16

Whoever remains in love,
remains in GOD and God in him.

 

 


447 1 Ga 4, 16

Ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên CHÚA
và Thiên CHÚA ở trong người ấy.

450 Mt 5: 1-12a

Tin Mừng CHÚA Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. 

 

Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi.
Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên.

 

Người mở miệng dạy họ rằng:
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành,
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ,
vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính,
vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người,
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay anh em khi
vì Thầy mà bị người ta sỉ vả,
bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.
Anh em hãy vui mừng hớn hở,
vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”

 

Đó là lời CHÚA.

 


451 Mat 5: 1-12a

A reading from the holy Gospel according to Matthew. 

 

When Jesus saw the crowds, he went up the mountain,
and after he had sat down, his disciples came to him.

 

He began to teach them, saying:
“Blessed are the poor in spirit,
for theirs is the Kingdom of heaven.
Blessed are they who mourn,
for they will be comforted.
Blessed are the meek,
for they will inherit the land.
Blessed are they who hunger and thirst for righteousness,
for they will be satisfied.
Blessed are the merciful,
for they will be shown mercy.
Blessed are the clean of heart,
for they will see God.
Blessed are the peacemakers,
for they will be called children of God.
Blessed are they who are persecuted for the sake of righteousness,
for theirs is the Kingdom of heaven.
Blessed are you when they insult you and persecute you
and utter every kind of evil against you falsely because of me.
Rejoice and be glad,
for your reward will be great in heaven.”

 

The Gospel of the LORD.

 


452 Mt 5: 13-16

Tin Mừng CHÚA Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. 

 

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng:
“Chính anh em là muối cho đời.
Nhưng muối mà nhạt đi,
thì lấy gì muối nó cho mặn lại?
Nó đã thành vô dụng,
thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.
Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được.
Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng,
nhưng đặt trên đế,
và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà.
Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ,
để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm,
mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”

 

Đó là lời CHÚA.

 


453 Mat 5: 13-16

A reading from the holy Gospel according to Matthew. 

 

Jesus said to his disciples:
“You are the salt of the earth.
But if salt loses its taste,
with what can it be seasoned?
It is no longer good for anything but to be thrown out
and trampled underfoot.
You are the light of the world.
A city set on a mountain cannot be hidden.
Nor do they light a lamp and then put it under a bushel basket;
it is set on a lamp stand,
here it gives light to all in the house.
Just so, your light must shine before others,
that they may see your good deeds
and glorify your heavenly Father.”

 

The Gospel of the LORD.

 


454 Mt 7: 21, 24-29

Tin Mừng CHÚA Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. 

 

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng:
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy:
Lạy Chúa! Lạy Chúa!là được vào Nước Trời cả đâu!
Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời,
mới được vào mà thôi.
Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành,
thì ví được như người khôn xây nhà trên đá.
Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào,
nhà ấy cũng không sụp đổ,
vì đã xây trên nền đá.
Còn ai nghe những lời Thầy nói đây,
mà chẳng đem ra thực hành,
thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát.
Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào,
nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành.”

 

Khi Đức Giê-su giảng dạy những điều ấy xong,
dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của Người,
vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền,
chứ không như các kinh sư của họ.

 

Đó là lời CHÚA.

 


455 Mat 7: 21, 24-29

A reading from the holy Gospel according to Matthew. 

 

Jesus said to his disciples:
“Not everyone who says to me,
'Lord, Lord,' will enter the Kingdom of heaven,
but only the one who does the will of my Father in heaven.
Everyone who listens to these words of mine
and acts on them will be like a wise man
who built his house on rock.
The rain fell, the floods came,
and the winds blew and buffeted the house.
But it did not collapse;
it had been set solidly on rock.
And everyone who listens to these words of mine
but does not act on them will be like a fool
who built his house on sand.
The rain fell, the floods came,
and the winds blew and buffeted the house.
And it collapsed and was completely ruined.”

 

When Jesus finished these words,
the crowds were astonished at his teaching,
for he taught them as one having authority,
and not as their scribes.

 

The Gospel of the LORD.

 


456 Mt 7:21, 24-25

Tin Mừng CHÚA Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. 

 

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng:
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy:
Lạy Chúa! Lạy Chúa!
là được vào Nước Trời cả đâu!
Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy
là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.
Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành,
thì ví được như người khôn xây nhà trên đá.
Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào,
nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá.”

 

Đó là lời CHÚA.

 


457 Mat 7: 21, 24-25

A reading from the holy Gospel according to Matthew. 

 

Jesus said to his disciples:
“Not everyone who says to me,
'Lord, Lord,' will enter the Kingdom of heaven,
but only the one who does the will of my Father in heaven.
Everyone who listens to these words of mine
and acts on them will be like a wise man
who built his house on rock.
The rain fell, the floods came,
and the winds blew and buffeted the house.
But it did not collapse;
it had been set solidly on rock.”

 

The Gospel of the LORD.

 


458 Mt 19:3-6

Tin Mừng CHÚA Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. 

 

Khi ấy, có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su để thử Người.
Họ nói:
“Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?”
Người đáp:
“Các ông không đọc thấy điều này sao:
'Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người
có nam có nữ',
và Người đã phán:
'Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình,
và cả hai sẽ thành một xương một thịt.'
Như vậy, họ không còn là hai,
nhưng chỉ là một xương một thịt.
Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.”

 

Đó là lời CHÚA.

 


459 Mat 19: 3-6

A reading from the holy Gospel according to Matthew. 

 

Some Pharisees approached Jesus, and tested him, saying,
“Is it lawful for a man to divorce his wife for any cause whatever?”

 

He said in reply,
“Have you not read that from the beginning
the Creator made them male and female and said,
'For this reason a man shall leave his father
and mother and be joined to his wife,
and the two shall become one flesh?'
So they are no longer two, but one flesh.
Therefore, what God has joined together, man must not separate.”

 

The Gospel of the LORD.

 


460 Mt 22:35-40

Tin Mừng CHÚA Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. 

 

Khi ấy, một người thông luật trong nhóm
hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng:
“Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê,
điều răn nào là điều răn trọng nhất?”

 

Đức Giê-su đáp:
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi, hết lòng,
hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.
Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất.
Còn điều răn thứ hai,
cũng giống điều răn ấy,
là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc
vào hai điều răn ấy.”

 

Đó là lời CHÚA.

 


461 Mat 22: 35-40

A reading from the holy Gospel according to Matthew. 

 

One of the Pharisees, a scholar of the law, tested Jesus by asking,
“Teacher, which commandment in the law is the greatest?”

 

He said to him,
“You shall love the Lord, your God,
with all your heart,
with all your soul,
and with all your mind.
This is the greatest and the first commandment.
The second is like it:
You shall love your neighbor as yourself.
The whole law and the prophets depend on these two commandments.”

 

The Gospel of the LORD.

 


462 Mc 10: 6-9

Tin Mừng CHÚA Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô. 

 

Đức Giê-su nói:
“Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng,
Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ;
vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ
mà gắn bó với vợ mình,
và cả hai sẽ thành một xương một thịt.
Như vậy, họ không còn là hai,
nhưng chỉ là một xương một thịt.
Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp,
loài người không được phân ly.”

 

Đó là lời CHÚA.

 


463 Mk 10: 6-9

A reading from the holy Gospel according to Mark. 

 

Jesus said:
“From the beginning of creation,
God made them male and female.
For this reason a man shall leave his father
and mother and be joined to his wife,
and the two shall become one flesh.
So they are no longer two but one flesh.
Therefore what God has joined together,
no human being must separate.”

 

The Gospel of the LORD.

 


464 Ga 2:1-11

Tin Mừng CHÚA Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. 

 

Khi ấy, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê.
Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su.
Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự.

 

Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người:
“Họ hết rượu rồi.”
Đức Giê-su đáp:
“Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi?
Giờ của tôi chưa đến.”
Thân mẫu Người nói với gia nhân:
“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”
Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy
theo thói tục người Do-thái,
mỗi chum chứa được khoảng tám mươi
hoặc một trăm hai mươi lít nước.
Đức Giê-su bảo họ:
“Các anh đổ đầy nước vào chum đi!”
Và họ đổ đầy tới miệng.
Rồi Người nói với họ:
“Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.”
Họ liền đem cho ông.
Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu
(mà không biết rượu từ đâu ra,
còn gia nhân đã múc nước thì biết),
ông mới gọi tân lang lại và nói:
“Ai ai cũng thết rượu ngon trước,
và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn.
Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.”

 

Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê
và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.

 

Đó là lời CHÚA.

 


465 Jn 2: 1-11

A reading from the holy Gospel according to John. 

 

There was a wedding in Cana in Galilee,
and the mother of Jesus was there.
Jesus and his disciples were also invited to the wedding.
When the wine ran short, the mother of Jesus said to him,
“They have no wine.”
And Jesus said to her,
“Woman, how does your concern affect me?
My hour has not yet come.”

 

His mother said to the servers,
“Do whatever he tells you.”

 

Now there were six stone water jars there
for Jewish ceremonial washings,
each holding twenty to thirty gallons.
Jesus told them,
“Fill the jars with water.”
So they filled them to the brim.
Then he told them,
“Draw some out now and take it to the headwaiter.”
So they took it.
And when the headwaiter tasted the water that had become wine,
without knowing where it came from
(although the servants who had drawn the water knew),
the headwaiter called the bridegroom and said to him,
“Everyone serves good wine first,
and then when people have drunk freely,
an inferior one; but you have kept the good wine until now.”

 

Jesus did this as the beginning of his signs in Cana in Galilee
and so revealed his glory, and his disciples began to believe in him.

 

The Gospel of the LORD.

 


466 Ga 15:9-12

Tin Mừng CHÚA Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. 

 

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng:
“Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào,
Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.
Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.
Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy,
anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy,
như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy
và ở lại trong tình thương của Người.
Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em
được hưởng niềm vui của Thầy,
và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
Đây là điều răn của Thầy:
anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”

 

Đó là lời CHÚA.

 


467 Jn 15: 9-12

A reading from the holy Gospel according to John. 

 

Jesus said to his disciples:
“As the Father loves me,
so I also love you.
Remain in my love.
If you keep my commandments,
you will remain in my love,
just as I have kept my Father's commandments
and remain in his love.
I have told you this so that my joy might be in you
and your joy might be complete.
This is my commandment: love one another as I love you.”

 

The Gospel of the LORD.

 


468 Ga 15: 12-16

Tin Mừng CHÚA Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. 

 

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng:
“Đây là điều răn của Thầy:
anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em.
Không có tình thương nào cao cả hơn
tình thương của người đã hy sinh tính mạng
vì bạn hữu của mình.
Anh em là bạn hữu của Thầy,
nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.
Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa,
vì tôi tớ không biết việc chủ làm.
Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu,
vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy,
Thầy đã cho anh em biết.
Không phải anh em đã chọn Thầy,
nhưng chính Thầy đã chọn anh em,
và cắt cử anh em để anh em ra đi,
sinh được hoa trái,
và hoa trái của anh em tồn tại,
hầu tất cả những gì anh em xin cùng
Chúa Cha nhân danh Thầy,
thì Người ban cho anh em.”

 

Đó là lời CHÚA.

 


469 Jn 15: 12-16

A reading from the holy Gospel according to John. 

 

Jesus said to his disciples:
“This is my commandment:
love one another as I love you.
No one has greater love than this,
to lay down one's life for one's friends.
You are my friends if you do what I command you.
I no longer call you slaves,
because a slave does not know what his master is doing.
I have called you friends,
because I have told you everything I have heard from my Father.
It was not you who chose me,
but I who chose you and appointed you to go
and bear fruit that will remain,
so that whatever you ask the Father in my name
he may give you.”

 

The Gospel of the LORD.

 


470 Ga 17:20-26

Tin Mừng CHÚA Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. 

 

Khi ấy, Đức Giê-su ngước mắt lên trời và cầu nguyện rằng:
“Lạy Cha, con không chỉ cầu nguyện cho những người này,
nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con,
để tất cả nên một,
như Cha ở trong con và con ở trong Cha
để họ cũng ở trong chúng ta.
Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con.
Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con,
để họ được nên một như chúng ta là một:
Con ở trong họ và Cha ở trong con,
để họ được hoàn toàn nên một;
như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con
và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.
Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu,
thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con,
để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con,
vinh quang mà Cha đã ban cho con,
vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.
Lạy Cha là Đấng công chính,
thế gian đã không biết Cha,
nhưng con, con đã biết Cha,
và những người này đã biết là chính Cha đã sai con.
Con đã cho họ biết danh Cha,
và sẽ còn cho họ biết nữa,
để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ,
và con cũng ở trong họ nữa.”

 

Đó là lời CHÚA.

 


471 Jn 17: 20-26

A reading from the holy Gospel according to John. 

 

Jesus raised his eyes to heaven and said:
“I pray not only for my disciples,
but also for those who will believe in me through their word,
so that they may all be one,
as you, Father, are in me and I in you,
that they also may be in us,
that the world may believe that you sent me.
And I have given them the glory you gave me,
so that they may be one, as we are one,
I in them and you in me,
that they may be brought to perfection as one,
that the world may know that you sent me,
and that you loved them even as you loved me.
Father, they are your gift to me.
I wish that where I am they also may be with me,
that they may see my glory that you gave me,
because you loved me before the foundation of the world.
Righteous Father, the world also does not know you,
but I know you, and they know that you sent me.
I made known to them your name
and I will make it known,
that the love with which you loved me may be in them
and I in them.”

 

The Gospel of the LORD.

Mẫu 1

 

Chủ tế:    Anh chị em thân mến, từ đầu lễ tới giờ, chúng ta đã được nghe Chúa nói với chúng ta qua các bài đọc Thánh Kinh. Bây giờ chúng ta hãy xin Ngài nghe lời cầu nguyện của chúng ta dâng lên Ngài.

 

  1. Chúng con cầu xin cho Ðức Thánh Cha, các Giám Mục và các Linh Mục khắp thế giới, hầu các ngài biết hướng dẫn chúng con luôn vững tin vào Chúa, và biết sống thương yêu nhau. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  2. Lạy Chúa là suối nguồn Tình Yêu, xin ban cho anh T. và chị T. vừa ước thề với nhau, được muôn phước lành của Chúa, được mãi mãi yêu thương nhau, và biết xây dựng gia đình theo gương sáng Thánh Gia, cùng kiên trì vượt qua mọi thăng trầm trong đời sống lứa đôi. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  3. Chúng ta xin Chúa trả công bội hậu cho Cha Chủ Tế và các Cha đồng tế, cho cha mẹ hai bên, cho các anh chị em, họ hàng bạn hữu, và mọi người hiện diện nơi đây, vì tình yêu thương và sự giúp đỡ cao quí của mọi người đã dành cho đôi tân hôn. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  4. Chúng con cũng cầu xin Chúa thương đến ông bà tổ tiên nội ngoại và thân bằng quyến thuộc của chúng con đã lìa khỏi cõi đời này được hưởng hạnh phúc bất diệt trong nước Chúa. Chúng con cầu xin Chúa.

Chủ tế:    Lạy Cha chí nhân, nhờ Chúa Thánh Thần, Chúa đã đổ vào lòng chúng con ơn tình yêu. Xin Chúa rộng ban thật nhiều ơn tình yêu này cho đôi tân hôn, cho gia đình họ, và cho mọi người chúng con. Chúng con nguyện xin nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con.

 

 


Mẫu 2

 

Chủ tế:    Anh chị em thân mến, Thiên Chúa đã muốn người nam và người nữ sống thành gia đình để cộng tác với Ngài trong công trình sáng tạo và cứu độ. Cùng tạ ơn Chúa với anh T. và chị T. trong ngày thành hôn, chúng ta cùng dâng lên Chúa những lời nguyện xin:

 

  1. Gia đình Kitô giáo là niềm hy vọng cho thế giới / Xin Chúa cho các gia đình Kitô giáo tích cực sống tinh thần Tin Mừng / để gia đình trở thành dấu chỉ của tình yêu thương / và sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới hôm nay / Chúng con cầu xin Chúa.
     
  2. Con cái là mùa xuân của gia đình và Hội Thánh / Xin Chúa cho các bậc cha mẹ biết tích cực giáo dục con cháu trong đức tin và đức mến / để chúng trở nên những người con ngoan cho gia đình / xã hội và Giáo Hội / Chúng con cầu xin Chúa.
     
  3. Người bảo gì các con cứ làm như vậy / Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria / xin Chúa giúp cho đôi tân hôn hôm nay / luôn được trung thành yêu thương và nâng đỡ nhau / để gia đình họ trở nên dấu chỉ tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh / Chúng con cầu xin Chúa.
     
  4. Sự gì Thiên Chúa đã liên kết / loài người không được phân ly / Xin Chúa cho gia đình hai họ và các thân hữu luôn đồng hành / và nâng đỡ gia đình anh T. và chị T. / để góp phần thánh hóa tình yêu và bảo vệ sự tín trung của họ / Chúng con cầu xin Chúa.

Chủ tế:      Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương hiến mình cho Hội Thánh. Xin thương chúc lành và tuôn đổ muôn ơn trên gia đình mới này, và giúp mọi gia đình Kitô luôn tha thiết với ơn gọi nên thánh, để trở nên dấu chỉ tình yêu của Chúa giữa mọi người. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

 

 


Mẫu 3

 

Chủ tế:    Anh chị em rất thân mến, Chúng ta hãy cầu nguyện cho (các) gia đình mới này để vợ chồng mỗi ngày thương yêu nhau hơn, đồng thời cũng xin Chúa tỏ lòng nhân hậu mà nâng đỡ mọi gia đình trên thế giới.

 

  1. Cầu cho những người vừa kết hôn đang hiện diện nơi đây và cho gia đình họ được mọi sự tốt đẹp. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  2. Cầu cho thân quyến và bạn bè của đôi tân hôn cũng như tất cả những người đã giúp đỡ họ. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  3. Cầu cho các bạn trẻ đang chuẩn bị bước vào hôn nhân và cho tất cả những người Chúa gọi theo bậc sống khác. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  4. Cầu cho mọi gia đình trên thế giới và cho nền hòa bình giữa các dân tộc được bền vững. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  5. Cầu cho mọi thành phần trong gia đình của chúng ta đã qua đời và mọi người đã lìa cõi thế. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  6. Cầu cho Giáo Hội là dân Thánh của Chúa và cho sự hợp nhất mọi Kitô hữu. Chúng con cầu xin Chúa.
     

Chủ tế:    Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang hiện diện ở giữa chúng con khi anh T. và chị T. giao kết, hợp nhất với nhau. Xin Chúa nhậm lời chúng con khẩn cầu mà ban tràn đầy Thánh Thần Chúa xuống trên chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

 

 


Mẫu 4

 

Chủ tế:    Anh Chị em thân mến! Tình yêu vợ chồng là hình ảnh, là dấu hiệu tình yêu của Chúa Kitô đối với Hội Thánh. Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho đôi tân hôn tìm thấy sự cao cả, sức mạnh và hiệp nhất trong mầu nhiệm ấy.

 

  1. Lạy Chúa, chúng con cảm tạ và ngợi khen Chúa vì Chúa đã soi sáng, hướng dẫn chúng con đến với nhau, cho tình yêu chúng con triển nở trong tình yêu Chúa. Ngày hôm nay qua Bí Tích Hôn Phối, Chúa liên kết chúng con nên một. Xin Chúa chúc lành và ngự trị trong gia đình chúng con hôm nay và mãi mãi. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  2. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết hy sinh, nhẫn nhục, tha thứ và trung thành với nhau trong tình yêu, để cùng xây dựng một gia đình thánh thiện, đạo đức và hạnh phúc, noi gương gia đình Thánh Gia Thất xưa. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  3. Lạy Chúa, Chúa là nguồn ủi an, xin cho chúng con biết tìm đến Chúa trong những lúc vui buồn, hay khi gặp gian nan thử thách để được Chúa an ủi và nâng đỡ, hầu đời sống hôn nhân của chúng con ngày càng êm ấm và hạnh phúc. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  4. Lạy Chúa Giêsu, tại Cana, Chúa đã biến nước thành rượu, khiến mọi người dự tiệc được trọn niềm hoan hỉ. Xin Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng con, để tất cả mọi người đều hiểu rằng Chúa chính là nguồn vui bất tận của con người. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  5. Lạy Chúa, xin Chúa ban mọi ơn lành hồn xác xuống trên Ông Bà, Cha Mẹ, Anh Chị Em và họ hàng đôi bên còn sống cũng như đã qua đời, những người đã có công sinh thành, dưỡng dục, hướng dẫn và dìu dắt chúng con trong những ngày tháng qua. Và xin Chúa trả công bội hậu cho Quý Cha, Quý Thầy, Ca Đoàn và Quý Vị quan khách, Quý thân bằng quyến thuộc và Anh Chị Em hiện diện cũng như vì hoàn cảnh phải vắng mặt trong Thánh Lễ này. Chúng con cầu xin Chúa.

Chủ Tế:   Lạy Chúa, Chúa là tình yêu, xin hãy giúp chúng con biết quí trọng tình yêu trong Bí Tích Hôn Phối, và gìn giữ tình yêu đó trong sạch theo luật Hôn ước của Chúa. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

 

 


Mẫu 5

 

Chủ tế:    Anh Chị em thân mến, Chúng ta hãy chúc tụng và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã dùng Bí Tích cao cả mà phối hợp các tôi tớ Chúa đây trong đời sống Hôn Nhân. Xin Chúa ban ơn phù trợ để tình yêu của anh chị ngày càng thêm phong phú và cho họ được hưởng hạnh phúc suốt đời. Chúng ta dâng lên lời cầu xin.

 

  1. Chúa đã hướng dẫn hai người yêu thương nhau, và đã dùng Bí Tích cao cả để chúc phúc cho tình yêu này. Xin Chúa giúp cho chúng con được luôn kiên cường và hết lòng với nhau để chu tòan mọi trách nhiệm trong bậc Hôn Nhân anh T. và chị T..Chúng con cầu xin Chúa.
     
  2. Từ nguyên thủy, Thiên Chúa đã tạo nên người nam và người nữ và ủy thác cho họ trách nhiệm sinh sản và dưỡng dục con cái. Xin Chúa cho gia đình mà Chúa vừa thiết lập, phát sinh con cái biết mến yêu và phụng thờ Chúa. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  3. Thiên Chúa là nguồn mọi tình phụ tử trên trời dưới đất. Xin báo đáp công ơn sinh thành cho cha mẹ, và tất cả những ai đã góp phần dưỡng dục chúng con. Xin ban cho họ được hưởng dồi dào muôn phúc lành hồn xác và được hưởng Ơn Cứu Độ muôn đời. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  4. Lạy Chúa, xin Chúa trả công bội hậu cho Quý Cha đã hướng dẫn, cầu nguyện và đặc biệt dâng Thánh Lễ Hôn Phối cho chúng con hôm nay. Xin Chúa ban tràn đầy ơn lành hồn xác cho các Ngài, để các Ngài luôn hăng say phụng sự Chúa trong tin yêu. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  5. Xin Chúa thương chúc lành cho tất cả thân nhân, bằng hữu hiện diện cũng như vắng mặt trong Thánh Lễ hôm nay, xin ban cho tất cả nguồn ơn nâng đỡ trong tình bằng hữu ở đời này và được hưởng hạnh phúc ở đời sau. Chúng con cầu xin Chúa.

Chủ tế:    Lạy Cha toàn năng, Cha đã tạo dựng người nam và người nữ giống hình ảnh Cha, và đã phối hợp họ thành gia đình đầu tiên. Xin thương chúc lành đến tôi tớ Cha vừa kết hợp thành gia đình mới, để suốt đời họ được an hưởng tình yêu và trung thành phụng thờ Cha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

 

 


Mẫu 6

 

Chủ tế:    Anh Chị em thân mến, Xưa Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse đã sống trong cảnh gia đình êm ấm tại Nazareth. Chúng ta hãy nài xin các Ngài thánh hóa và chúc phúc cho các gia đình trong Giáo Hội Chúa. Đặc biệt cho gia đình tương lai của anh T. và chị T. mà Chúa đã nối kết họ nên một trong lễ thành hôn hôm nay.

 

  1. Lạy Chúa, trong bữa tiệc cưới Cana, Chúa và Mẹ Thánh Chúa cũng có mặt, và đã thánh hóa đôi tân hôn bằng việc làm phép lạ biến hóa nước lã trở thành rượu ngon. Xin Chúa cũng thánh hóa gia đình mới này, để chúng con sống trọn cuộc đời hạnh phúc, thương yêu, như Đức Kitô đã hy hiến mạng sồn cho Giáo Hội Người. Chúng con nguyện xin Chúa.
     
  2. Lạy Chúa, xin ban cho các gia đình Công giáo, được nhìn ngắm vào tấm gương sáng ngời của Thánh Gia Thất xưa, để mọi người trong gia đình, cha mẹ, con cái, biết sống hòa hợp thương yêu, biết dìu dắt nhau tới quê hương hạnh phúc thật trên trời. Chúng con nguyện xin Chúa.
     
  3. Chúng con cầu xin cho ông bà, cô bác, thân thuộc, đặc biệt cho cha mẹ nội ngọai chúng con, và mọi người đã dày công nuôi dưỡng, dạy dỗ, nâng đỡ chúng con, hiện diện cũng như vì hòan cảnh mà vắng mặt nơi đây. Nhờ những hy sinh cao cả của các ngài mà chúng con mới được như ngày nay. Xin Chúa thương ban dồi dào ơn lành hồn xác nhất là sự bình an trọn vẹn trong ơn nghĩa Chúa bây giờ và mãi mãi. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  4. Ðể cảm tạ, chúng con xin Chúa thương ban cho quý Cha, quý Thầy, các ân nhân và mọi bà con, anh chị em, bạn hữu xa gần, hiện diện trong thánh lễ hôm nay, hoặc đã cầu nguyện hay giúp đỡ chúng con bất cứ cách nào, được nhiều ơn nghĩa đặc biệt với Chúa mãi....Chúng con cầu xin Chúa.
     
  5. Lạy Chúa, nhân ngày thành hôn của hai chúng con hôm nay, xin cho tất cả các linh hồn đã được Chúa gọi về thuộc hai gia đình nội ngoại của chúng con, và tất cả những linh hồn mà chúng con phải cầu nguyên cho, sớm được về hưởng nhan thánh Chúa... Chúng con nguyện xin Chúa.

Chủ tế:    Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con nài xin Chúa cho các tôi tớ Chúa đây là anh T. và chị T. khi liên kết với nhau bằng bí tích hôn nhân, được tăng trưởng trong Ðức Tin mà họ tuyên xưng, và làm cho Hội Thánh được nhiều con cái trung thành. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô....

 

 


Mẫu 7

 

Chủ tế:    Giờ đây chúng ta vừa nghe lời Chúa trong Kinh Thánh và cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa qua việc trao đổi lời giao ước Hôn Phối, chúng ta hãy dâng lên những lời nguyện xin:

 

  1. Lạy Chúa, xin ban cho Ðức Thánh Cha, các giám mục, các linh mục, các tu sĩ và mọi thành phần trong gia đình của Chúa được hiệp nhất trong Chúa Kitô Con Chúa, trung thành phục vụ và loan báo ơn cứu độ của Người. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  2. Xin ban cho những nhà cầm quyền nhận biết gia đình là nền tảng quốc gia để từ đó tôn trọng các giá trị gia đình, bảo vệ các mầm sống ngay khi còn trong bào thai, và dồn mọi nỗ lực và tài nguyên vào việc thăng tiến gia đình. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  3. Lạy Chúa, xin ban cho những người không tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống gia đình, những người bệnh hoạn, sống lẻ loi và những người bị đàn áp để họ được Chúa ban thêm sức mạnh, và mọi người giúp đỡ họ. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  4. Lạy Chúa, xin chúc lành cho mọi người sống trong bậc gia đình, nhất là anh T. và chị T., để họ biết chia sẻ rộng lượng, biết tha thứ lẫn nhau, và biết tìm hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  5. Lạy Chúa, xin ban cho gia quyến hai bên Nội Ngoại, thân bằng quyến thuộc, cùng mọi người đang hiện diện trong Thánh Lễ, những người còn ở quê nhà, được hưởng trọn vẹn niềm vui và ân sủng của Chúa. Xin Chúa cho tình thương của họ luôn trải rộng, để họ trở nên nhân chứng tình yêu của Chúa ở giữa thế gian. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  6. Lạy Chúa, xin trả công bội hậu cho quý Cha đã hướng dẫn, nâng đỡ và đặc biệt dâng Thánh Lễ chúc lành cho cuộc hôn nhân của anh T. và chị T.. Xin Chúa ban tràn đầy ơn lành cho các ngài, để các ngài hăng say phụng vụ Chúa trong tin yêu....Chúng con cầu xin Chúa.
     
  7. Lạy Chúa, xin cho tất cả linh hồn đã được Chúa gọi về thuộc hai gia đình nội ngoại của đôi vợ chồng mới, và tất cả những linh hồn mà chúng con phải cầu nguyện cho, sớm được về hưởng Nhan Thánh Chúa. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  8. Trong thinh lặng, chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện riêng. Chúng con cầu xin Chúa.

Chủ tế:    Lạy Chúa là Thiên Chúa của tình yêu, Chúa đã dạy chúng con hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở. Chúng con vừa dâng lên Chúa những lời cầu nguyện. Tin tưởng là Chúa sẽ nhìn đến những lời cầu nguyện của chúng con. Chúng con cầu xin Chúa, nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con.

 

 


Mẫu 8

 

Chủ tế:    Anh Chị em thân mến! Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người vì yêu thương nhân loại, Người muốn liên kết hoàn toàn với chúng ta, và muốn chia sẻ trọn vẹn thân phận con người, chúng ta hãy chúc tụng và cảm tạ Người, nhờ Mẹ Thánh Chúa, chúng ta dâng những lời nguyện xin:

 

  1. Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Hôn phu của Hội Thấnh, xin cho Hội Thánh được tràn đầy ơn thánh hóa để luôn xứng đáng là hiền thê của Chúa. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  2. Lạy Chúa, xin cho các tín hữu đã lập gia đình, luôn biết bảo vệ tình yêu và chung thủy với nhau mãi mãi để nêu cao sự kết hiệp nhiệm mầu giữa Ðức Kitô và Hội Thánh. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  3. Lạy Chúa, xin tuôn đổ muôn phúc lành xuống trên hai anh chị vừa mới thành hôn, xin nâng đỡ họ khi vui, cũng như lúc buồn, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, biết chấp nhận lẫn nhau, để anh chị suốt đời được hạnh phúc bên nhau. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  4. Lạy Chúa, Chúa đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc nhân loại, xin cho Giáo Xứ chúng con và nhất là cho đôi tân hôn này, nhờ Bí Tích Thánh Thể, biết quên mình để mưu cầu hạnh phúc cho các anh chị em. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  5. Lạy Chúa, xin chúc lành cho ông bà, cha mẹ, anh chị em, và tất cả thân bằng quyến thuộc của đôi tân hôn, được ơn lành hồn xác, và gặp nhiều nguồn vui trong cuộc sống. Chúng con cầu xin Chúa.

Chủ tế:    Lạy Chúa, Chúa là tình yêu, xin hãy giúp chúng con biết quí trọng tình yêu trong Bí Tích Hôn Phối, và gìn giữ tình yêu đó trong sạch theo luật Hôn ước của Chúa. Chúng con nguyện xin nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con.

 

 


Mẫu 9

 

Chủ tế:    Anh Chị em thân mến, trong ngày vui mừng của anh T. và chị T., chúng ta dâng lên Chúa lời tri ân vì sự quan phòng của Ngài. Ðồng thời chúng ta dâng lời cầu cho Ðức Thánh Cha cùng toàn thể Giáo Hội Chúa, cho cha mẹ của đôi bên, và cho chính cuộc sống của hai người mà chúng ta đang chứng kiến trong buổi lễ hôm nay.

 

  1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban muôn hồng ân cho Ðức Thánh Cha, các Ðức Giám Mục, Linh Mục và tu sĩ khắp nơi, cách riêng Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, để các Ngài luôn kiên cường, hăng say, và nhiệt thành phục vụ Giáo Hội Chúa. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  2. Xin Chúa ban mọi ơn lành cho cha mẹ của đôi tân hôn, để các Ngài luôn an vui trong cuộc sống. Xin Chúa cũng thương đến những thân nhân của chúng con đã qua đời. Xin cho tất cả được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Thiên Quốc. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  3. Xin Chúa gìn giữ anh T. và chị T. trong tình yêu và ân nghĩa của Chúa, để Hai Người biết yêu nhau tha thiết, giữ lòng chung thủy trọn đời và giáo dục con cái theo tinh thần phúc âm. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  4. Chúng con cầu xin Chúa cho thân bằng quyến thuộc Hai Họ và mọi người hiện diện nơi đây được tràn đầy ân sủng, niềm vui và phước lành của Chúa, để Họ luôn yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau và trở nên chứng nhân của Chúa nơi trần gian. Chúng con cầu xin Chúa.
     
  5. Với những người tàn tật, đau ốm và thất vọng. Xin Chúa ban cho họ nguồn cậy trông, niềm hy vọng và sự giúp đỡ, để họ lướt thắng mọi khó khăn hầu chóng bình phục. Chúng con cầu xin Chúa.

Chủ tế:    Lạy Chúa, Chúa đã kêu gọi chúng con để trở thành dân riêng và ban cho chúng con thần linh Chúa, xin nghe lời khẩn nguyện chúng con hôm nay và giúp chúng con biết trung thành với những giao ước mà Chúa đã hứa, để đức tin chúng con được thể hiện trong hành động, đức mến được thực thi qua cách sống, và đức cậy đem lại cho chúng con niềm hoan lạc. Chúng con nguyện xin vì Ðức Kitô con Chúa, Chúa chúng con.

 

 


Mẫu 10

 

The Priest begins:   
Dear brothers and sisters,
as we call to mind the special gift of grace and charity
by which God has been pleased to crown and consecrate
the love of our sister N. and our brother N.
let us commend them to the Lord.

 

  1. That these faithful Christians, N. and N.,
    newly joined in Holy Matrimony,
    may always enjoy health and well-being,
    let us pray to the Lord.
    R./ Lord, we ask you, hear our prayer.
     
  2. That he will bless their covenant
    as he chose to sanctify marriage at Cana in Galilee,
    let us pray to the Lord.
    R./ Lord, we ask you, hear our prayer.
     
  3. That they be granted perfect and fruitful love,
    peace and strength,
    and that they bear faithful witness to the name of Christian,
    let us pray to the Lord.
    R./ Lord, we ask you, hear our prayer.
     
  4. That the Christian people
    may grow in virture day by day
    and that all who are burdened by any need
    may receive the help of grace from above,
    let us pray to the Lord.
    R./ Lord, we ask you, hear our prayer.
     
  5. That the grace of the Sacrament
    will be renewed by the Holy Spirit
    in all married persons here present, let us pray to the Lord.
    R./ Lord, we ask you, hear our prayer.

The Priest concludes:   
Graciously pour out upon this husband and wife,
O Lord, the Spirit of your love,
to make them one heart and one soul,
so that nothing whatever may divide those you have joined
and no harm may come to those you have filled with your blessing.
Through Christ our Lord.
R./ Amen.

 

 


Mẫu 11

 

The Priest begins:   
Dear brothers and sisters,
let us accompany this new family with our prayers,
that the mutual love of this couple may grow daily
and that God in his kindness
will sustain all families throughout the world.

 

  1. For this bride and groom,
    and for their well-being as a family,
    let us pray to the Lord.
    R./ Lord, we ask you, hear our prayer.
     
  2. For their relatives and friends,
    and for all who have assisted this couple,
    let us pray to the Lord.
    R./ Lord, we ask you, hear our prayer.
     
  3. For young people preparing to enter Marriage,
    and for all whom the Lord is calling to another state in life,
    let us pray to the Lord.
    R./ Lord, we ask you, hear our prayer.
     
  4. For all families throughout the world
    and for lasting peace among all people,
    let us pray to the Lord.
    R./ Lord, we ask you, hear our prayer.
     
  5. For all members of our families
    who have passed from this world,
    and for all the departed,
    let us pray to the Lord.
    R./ Lord, we ask you, hear our prayer.
     
  6. For the Church, the holy People of God,
    and for unity among all Christians,
    let us pray to the Lord.
    R./ Lord, we ask you, hear our prayer.

The Priest concludes:   
Lord Jesus, who are present in our midst,
as N. and N. seal their union
accept our prayer
and fill us with your Spirit.
Who live and reign for ever and ever.
R./ Amen.

 

 


Mẫu 12

 
  1. For our families, relatives and friends who walk with us on life’s journey and especially for all those who have helped N. and N. reach this happy day. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  2. Let us pray for married couples here today and everywhere that their lives will be an example to the world of unity, fidelity & love. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  3. For N. and N. in their life together, that the sacrament and unity of their marriage serve as a symbol and real presence to all people of the grace and love of God. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  4. May the love of N. and N. be patient and gentle, ready to trust and endure whatever life brings. May their home be a gentle place of laughter, understanding and kindness. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  5. We pray for the Church, the Body of Christ: we pray that at each moment of our day and all of our lives that we might act justly, love tenderly and walk humbly with God. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  6. For our Pope, Bishops and all who minister to the Church, that they may lead all of us to love one another as God loves us. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  7. For those who have died, especially those whom we have known and loved, that they may enjoy perfect happiness and total fulfilment in eternal life. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  8. For all personal intentions that are within our hearts (wait 5 seconds). We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.

 


Mẫu 13

 
  1. For the Church and its leaders, and for all bishops, priests, and deacons. May they continue to lead the Church to a deeper faith and love of others. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  2. For those who are sick, lonely, or struggling. May they be strengthened by God's love and aided by their family and friends. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  3. For all those preparing for the Sacrament of Marriage. May they grow together in wisdom and grace and may they see their vocation to married life as a sign of God's love. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  4. For the married couples here today, may they be reminded of the joy of their own day and may they continue to live as an example of unity and love. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  5. For the parents of N. and N., their brothers and sisters, and all their family and friends gathered here today. May they continue to be a source of love, support, and guidance. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  6. For N. and N., who begin their new life together on this special day. May their love grow deeper each day, may their home be filled with joy and happiness, and may the Lord bless them and keep them safe. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  7. For all those who have gone before us, especially the relatives of N. and N. May they know the peace and perfect happiness of eternal life with God. We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.
     
  8. For all personal intentions that are within our hearts (wait 5 seconds). We pray to the Lord.
    R./ Lord, hear our prayer.

Lời Đầu

Chủ tế:

Anh chị rất thân mến. Các anh chị cùng nhau đến nhà thờ, để ý muốn kết hôn của các anh chị được Chúa củng cố bằng một ấn dấu linh thánh trước mặt thừa tác viên của Hội Thánh và cộng đoàn. Đức Kitô dang rộng tay ban phúc lành cho tình yêu phu phụ của anh chị, và dùng bí tích đặc biệt mà làm cho các anh chị nên phong phú và vững mạnh, để các anh chị mãi mãi chung thủy với nhau và đảm nhận những trách nhiệm khác của hôn nhân, như chính Người đã dùng bí tích Thanh tẩy mà thánh hiến các anh chị. Bởi vậy, trước mặt Hội Thánh, Cha hỏi các anh chị về ý định của các anh chị:

Anh T. và chị T., anh chị đến đây để kết hôn với nhau, các anh chị có bị ép buộc không?

 

Dâu & Rể:
Thưa không.

 

Chủ tế:
Anh chị có hoàn toàn tự ý và tự do không?

 

Dâu & Rể:
Thưa có.

 

Chủ tế:
Khi chọn đời sống hôn nhân, anh chị có sẵn sàng yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời không?

 

Dâu & Rể:
Thưa có.

 

Chủ tế:
Anh chị có sẵn sàng yêu thương và đón nhận con cái Chúa sẽ ban, và giáo dục chúng theo luật Đức Kitô và Hội thánh không?

 

Dâu & Rể:
Thưa có.

 

Tuyên Hứa

Chủ tế:
Vậy, bởi vì anh chị đã quyết định thiết lập một giao ước hôn nhân thánh thiện, anh chị hãy nắm tay nhau và nói lên sự ưng thuận của anh chị trước mặt Thiên Chúa và Hội thánh.

 

Rể:
Anh là T. nhận em T. làm vợ của anh, và hứa giữ lòng chung thủy với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để yêu thương và tôn trọng em mọi ngày suốt đời anh.

 

Dâu:
Em là T. nhận em T. làm chồng của em, và hứa giữ lòng chung thủy với anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để yêu thương và tôn trọng anh mọi ngày suốt đời em.

 

Chủ tế:
Xin Chúa tỏ lòng nhân hậu chuẩn y sự ưng thuận anh chị vừa tỏ bày trước mặt Hội thánh, và xin Chúa tuôn đổ phúc lành của Ngài trên anh chị. Sự gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân ly.

 

Cộng Đoàn:
Amen. 

 

Làm Phép và Trao Nhẫn

Chủ tế:
Xin Chúa ban phúc  lành cho những chiếc nhẫn này mà anh chị sắp trao cho nhau làm dấu chỉ tình yêu và lòng chung thủy.

 

Rể:
Em T., xin em nhận chiếc nhẫn này làm dấu chỉ tình yêu và lòng chung thủy của anh. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.

 

Dâu:
Anh T., xin anh nhận chiếc nhẫn này làm dấu chỉ tình yêu và lòng chung thủy của em. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.
 
 
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
 
 
 

Opening

Priest:

Dearly beloved, you have come together into the house of the Church, so that in the presence of the Church’s minister and the community your intention to enter into Marriage may be strengthened by the Lord with a sacred seal. Christ abundantly blesses the love that binds you. Through a special Sacrament, he enriches and strengthens those he has already consecrated by Holy Baptism, that they may be faithful to each other for ever and assume all the responsibilities of married life. And so, in the presence of the Church, I ask you to state your intentions

N.and N, have you come here to enter into Marriage without coercion, freely and wholeheartedly?

Bride & Groom:
Yes, we have.
Priest:
Are you prepared, as you follow the path of Marriage, to love and honor each other for as long as you both shall live?
Bride & Groom:
I am.
Priest:
Are you prepared to accept children lovingly from God and to bring them up according to the law of Christ and his Church?
Bride & Groom:
I am.

The Consent

Priest:
Since it is your intention to enter the covenant of Holy Matrimony, join your right hands and declare your consent before God and his Church.
Groom:
I, N., take you, N., to be my wife. I promise to be faithful to you, in good times and in bad, in sickness and in health, to love you and to honor you all the days of my life.
Bride:
I, N., take you, N., to be my husband. I promise to be faithful to you, in good times and in bad, in sickness and in health, to love you and to honor you all the days of my life.
Priest:
May the Lord in his kindness strengthen the consent you have declared before the Church, and graciously bring to fulfillment his blessing within you. What God joins together, let no one put asunder.

Blessing and Exchange of Rings

Priest:
May the Lord bless  these rings, which you will give to each other as a sign of love and fidelity.
All:
Amen.
Groom:
N., receive this ring as a sign of my love and fidelity. In the name of the Father, and of the Son, and of the Holy Spirit.
Bride:
N., receive this ring as a sign of my love and fidelity. In the name of the Father, and of the Son, and of the Holy Spirit.